(16) Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Ðức Giêsu đã truyền cho các ông đến. (17) Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi. (18) Ðức Giêsu đến gần, nói với các ông: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. (19) Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, (20) dạy bảo họ tuân giữ những điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế".
Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 28,16-20) là đoạn kết sách Tin Mừng Mt,
kể lại cho chúng ta cuộc hiện ra chính thức và long trọng của Chúa Kitô Phục Sinh với các Tông Đồ. Điểm nhấn không phải là chứng tỏ Chúa đã phục sinh, mà là trao sứ mạng cho các Tông Đồ, và qua các ông, cho toàn thể Hội Thánh.
Mở đầu bài Tin Mừng là cuộc gặp gỡ của các Tông Đồ với Chúa Phục Sinh: “Mười một môn đệ đi tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến. Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (cc.16-17). Trước hết, Nhóm Mười Một đi đến một nơi do Chúa Giêsu ấn định, “tới miền Galilê, đến ngọn núi Đức Giêsu đã truyền cho các ông đến”. Sự kiện này mang nhiều ý nghĩa đặc biệt, rất đáng suy nghĩ đối với chúng ta, cách riêng trong khung cảnh Lễ Thăng Thiên hôm nay. Cho đến lúc này, các đồ đệ chưa được thấy Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng các ông vẫn làm theo một lệnh truyền của Người, vì lẽ, trong tư cách là những đồ đệ đích thật, các ông tin tưởng vào lời của Thầy. Theo sứ điệp do các phụ nữ truyền đạt, cuộc hành trình đến ngọn núi ở Galilê này được thực hiện trong ý thức rằng Đấng Phục Sinh đã gọi họ là anh em, và trong niềm hy vọng mãnh liệt rằng họ sẽ được gặp Đức Giêsu ở đó.
Cuộc hành trình tới Galilê làm cho các đồ đệ nhớ về Thầy Giêsu và suy niệm về những thực tại mà các ông đã từng trải nghiệm cùng với Người trong suốt cuộc hành trình dài trước đây, như đã được kể trong 16,21 – 21,34. Trong cuộc hành trình đó, Thầy Giêsu đã nhiều lần nói trước cho họ biết về những gì sẽ xảy ra tại Giêrusalem, tức là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Người (16,21; 17,22-23; 20,17-19). Khi ấy, các đồ đệ không hiểu (16,22-23; 20,20-23) và Thầy Giêsu đã dạy cho các ông biết đâu là điều cốt yếu đối với các ông trong cuộc đi theo Người (16,24-28; 18,1-35; 20,24-28). Bây giờ, khi tất cả những điều được báo trước ấy đã xảy đến, các đồ đệ đi lại cuộc hành trình đó và sống lại các kinh nghiệm của cuộc hành trình trước đây trong ánh sáng mới của mầu nhiệm Phục Sinh.
Các đồ đệ là chứng nhân của những giáo huấn và những hành động quyền năng mà Thầy Giêsu đã thực hiện suốt cuộc hành trình cùng các ông từ Galilê. Các thực tại đó cũng cần được chiêm nghiệm lại dưới ánh sáng mới của cuộc Phục Sinh. Các ông sẽ hiểu ra rằng tất cả các hoạt động của Đức Giêsu đều được xác nhận giá trị do cuộc phục sinh của Người, và chỉ có thể hiểu đúng nếu xuất phát từ mầu nhiệm Phục Sinh mà thôi.
Điểm đến chính xác của cuộc hành trình của Nhóm Mười Một sẽ là ngọn núi. Ngọn núi đã được nói đến lần đầu tiên trong 5,1 và làm thành khung cảnh của bài giảng đầu tiên của Đức Giêsu, thường được gọi là “Bài giảng trên núi”. Ở 5,1, lần đầu tiên chúng ta gặp biểu thức “các đồ đệ của Người”; họ được trình bày như là những người gần gũi nhất của Đức Giêsu và là đối tượng đầu tiên của những lời giáo huấn của Người. Được truyền phải đi đến ngọn núi, tức là các đồ đệ được kêu gọi tìm về nơi chốn khởi đầu mối tương quan chung của họ với Thầy Giêsu, và trước khi gặp gỡ Đức Giêsu Phục Sinh, họ phải trải nghiệm lại toàn bộ cuộc hành trình thế tạm của Người.
Đến ngọn núi ở Galilê, các đồ đệ được gặp Đức Giêsu Phục Sinh. Nhưng sự kiện các ông thấy Người đã chỉ được mô tả rất vắn tắt bằng một động tính từ: “khi thấy Người”. Sau đó là hai phản ứng của các ông: bái lạy và hoài nghi. Bằng việc bái lạy, các ông diễn tả cách hiểu của mình về con người và phẩm giá cao cả của Đức Giêsu. Nhưng đồng thời, xảy đến sự hoài nghi. Tác giả Tin Mừng viết: “hôi dê êdistasan”. Trong Tân Ước, động từ “êdistazêin” (nghi ngờ) chỉ xuất hiện trong Mt 14,31 và 28,17. Ở 14,31 sự nghi ngờ của ông Phêrô liên quan đến quyền năng của Đức Giêsu. Ở 28,17 thì chính con người và sự hiện diện của Đức Giêsu bị các đồ đệ nghi ngờ. Vấn đề tranh luận là với cách nói “hôi dê”, tác giả Tin Mừng muốn nói tất cả Nhóm Mười Một nghi ngờ hay chỉ một số người trong họ mà thôi. Xem ra cả hai cách giải thích đều có thể đúng (bản Vulgata đọc là: “quidam autem dubitaverunt”). Dù hiểu theo cách nào, thì chuyện quan trọng vẫn là mối tương quan của Nhóm Mười Một với Đức Giêsu Phục Sinh vẫn chưa hoàn hảo. Cuộc gặp gỡ Đấng Phục Sinh còn phải được hoàn thành và xác nhận bởi sự kiện Chúa Phục Sinh ngỏ lời với họ.
“Đức Giêsu đến gần, nói với các ông” (c.18a). Từ bây giờ, chỉ một mình Đức Giêsu hành động. Người đến gần các môn đệ và nói với họ. Tác giả Mt có vẻ ưa dùng động từ “đến gần” (tổng cộng đến 52 lần, trong khi Mc 5 lần, Lc 10 lần và Ga chỉ 1 lần). Trong phần lớn các trường hợp (38 lần), chính Đức Giêsu là đích của sự “đến gần” này. Chỉ có hai trường hợp là Đức Giêsu “đến gần” và điểm đến luôn là các đồ đệ. Ở cuối trình thuật về biến cố hiển dung, Đức Giêsu đến gần các đồ đệ khi các ông đang rất đỗi sợ hãi, ngã sấp mặt xuống (17,6); Người chạm vào các ông và bảo: “Trỗi dậy đi, đừng sợ” (17,7), tức là Người chủ động thiết lập một sự hiệp thông với các đồ đệ đang tê liệt vì sợ hãi và làm cho các ông trở nên mạnh mẽ. Ở 28,17 các đồ đệ bái lạy Đức Giêsu, tức là đang ở tư thế cúi mình xuống đất, và đồng thời, (ít là) vài người trong số đang trải qua tâm trạng bối rối nghi nan. Một lần nữa, Đức Giêsu đến gần họ, và với lời của Người, Đức Giêsu định hướng cho cuộc sống và sứ mạng của họ trong tương lai. Người cho các ông biết Người là ai, quyền năng mà Người hiện có là thế nào, và họ cần phải làm gì…
Lời đầu tiên Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một xác quyết quan trọng: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất” (c.18b). Người cho các ông biết Người đã nhận được gì từ Chúa Cha, và vị thế của Người từ nay là thế nào.
Động từ “trao” được đặt ở thì aorist dạng thụ động thần học, cho thấy quyền bính mà Đức Giêsu Phục Sinh đã lãnh nhận có nguồn gốc là chính Thiên Chúa. Thì aorist cho biết việc trao quyền bính này đã xảy ra. Vậy đây không phải là một hy vọng hay một lời hứa, mà là một thực tại đã xảy đến dứt khoát.
Đặc tính toàn diện của quyền bính mà Đức Giêsu đang có, được tác giả nhấn mạnh cách đặc biệt, cả về phương diện bản chất lẫn về phương diện phạm vi: “toàn quyền” và “trên trời dưới đất” (tức là toàn thể vũ trụ). Quyền bính này, như thế, tương ứng với quyền bính của chính Thiên Chúa. Trong quyền bính như thế, căn tính của Chúa Con được thể hiện.
Lời thứ hai Đức Giêsu nói với các đồ đệ là một lệnh truyền long trọng:“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (cc.19-20a).
Lệnh truyền “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” được bắt đầu bằng hạn từ “vậy”, cho thấy lệnh truyền đó được đặt nền tảng trên những gì vừa được khẳng định ở phía trước. Nói cách khác, nhiệm vụ thừa sai của Hội Thánh đặt nền tảng trên mầu nhiệm toàn quyền trên trời dưới đất đã được Chúa Cha trao cho Chúa Giêsu.
Hạn từ “môn đệ” xuất hiện 65 lần trong Mt 5,1 – 28,16 với ý nghĩa chỉ về các môn đệ của Đức Giêsu và luôn luôn được đặt ở số nhiều. Trong tư cách là một cộng đoàn nhỏ, họ hiện diện bên cạnh Đức Giêsu trong suốt hành trình của Người từ bài giảng trên núi đến cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh. Mối tương quan “môn đệ - tôn sư” này là yếu tố nền tảng, diễn tả và xác định sự hiệp nhất nên một của họ với Đức Giêsu và là nền tảng cho sự hiện diện liên tục của họ bên cạnh Người. Đồng thời, cũng chính mối tương quan đó với Đức Giêsu lại xác định mối tương quan của họ với nhau. Tất cả các đồ đệ đều chung nhau tư cách là môn đệ của Đức Giêsu; tư cách đó làm cho họ hiệp nhất với nhau và tạo thành một cộng đoàn thực sự chung quanh Đức Giêsu.
Bây giờ, Chúa Phục Sinh trao phó cho họ nhiệm vụ kéo dài và đào sâu kinh nghiệm làm môn đệ đó của họ cho muôn dân. Như thế, tất cả những gì mà tác giả Tin mừng Mt đã nói trong suốt cuốn sách về tương quan giữa Đức Giêsu và các môn đệ Người, đã không hề là chuyện quá khứ bị vượt quá rồi, nhưng là những thực tại luôn luôn có giá trị căn bản đối với nhiệm vụ của họ trong hiện tại và tương lai. Mối tương quan thiết thân của họ với Đức Giêsu đã trở thành khuôn mẫu phổ quát cho mối tương quan giữa người ta với Người. Điều mà họ phải làm cho thế giới, trước hết, không phải là đưa ra những giáo huấn, những huấn lệnh, những lý thuyết hay chủ nghĩa lỗi lạc, mà là mối tương quan thiết thân với chính Đức Giêsu, trong tương quan đó, các đồ đệ hoàn toàn tin tưởng không điều kiện vào Thầy Giêsu và hoàn toàn đặt mình trong sự dẫn dắt của Thầy Giêsu.
Lệnh truyền “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” cũng bao hàm nhiệm vụ của các môn đệ là biến đổi toàn nhân loại, tức là tất cả mọi dân, thành một cộng đoàn vĩ đại. Tư cách là đồ đệ nối kết con người với Đức Giêsu đồng thời nối kết con người lại với nhau. Trở thành môn đệ của Đức Giêsu cũng đồng thời là bước vào cộng đoàn các đồ đệ của Người.
“Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ” là nội dung chính yếu trong lệnh truyền của Chúa Phục Sinh cho các môn đệ của Người. Ngoài ra, có ba hành động khác được nối kết vào với nội dung chính yếu đó: đi, làm phép rửa và dạy bảo. Ba hành động này được trình bày, về mặt ngữ pháp, bởi ba động tính từ. Chúa Giêsu đòi hỏi các môn đệ của Người phải lên đường, chứ không ngồi yên ở nhà mà chờ đợi muôn dân đến để làm cho họ thành môn đệ của Chúa. Hội Thánh thừa sai luôn luôn hiện hữu trong tư thế đi đến với muôn dân, một cách tự do, năng động và thân thiện. Hội Thánh “làm cho muôn dân trở thành môn đệ” bằng cách “làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền”. Mối tương quan thiết thân với Đức Giêsu, Vị Thầy duy nhất, là mối tương quan nền tảng. Người ta trở thành môn đệ bằng cách đón nhận phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, và sống tư cách môn đệ bằng cách lắng nghe và tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu.
Lời thứ ba Đức Giêsu nói với các môn đệ là một sự bảo đảm trợ giúp: “Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (c.20b). Đức Giêsu đã trao cho các môn đệ sứ mạng thừa sai phổ quát, và bây giờ, Người bảo đảm sẽ ban cho các ông quyền năng trợ giúp của chính Người. Quyền năng này trước hết liên quan đến việc thi hành sứ mạng và làm cho những người được sai đi trở nên vững mạnh. Nhóm Mười Một phải làm cho muôn dân trở thành đồ đệ của Chúa, phải làm phép rửa cho họ và dạy dỗ họ, nhưng chính Đức Giêsu ở với các ông và hoạt động qua các ông. Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện, DCCT
Cúi xin
Chúa sáng soi cho chúng con được biết việc phải làm, cùng khi làm, xin
Chúa giúp đỡ cho mỗi kinh mỗi việc chúng con, từ khởi sự cho đến hoàn
thành đều nhờ bởi ơn Chúa. Amen
Ngôi mộ trống
(1) Sau ngày sabát, khi ngày thứ nhất trong tuần vừa ló rạng, bà Maria Mácđala và một bà Maria khác, đi viếng mộ. (2) Và kìa, đất rung chuyển dữ dội: thiên thần Chúa từ trời xuống, đến lăn tảng đá ra, rồi ngồi lên trên; (3) diện mạo người như ánh chớp, và y phục trắng như tuyết. (4) Thấy người, lính canh khiếp sợ, run rẩy và hóa ra như chết. (5) Thiên thần lên tiếng bảo các phụ nữ: "Phần các bà, các bà đừng sợ! Tôi biết các bà tìm Ðức Giêsu, Ðấng bị đóng đinh. (6) Người không có ở đây, vì Người đã chỗi dậy như Người đã nói. Các bà đến mà xem chỗ Người đã nằm, (7) rồi mau về nói với môn đệ Người như thế này: Người đã chỗi dậy từ cõi chết, và kìa Người đi Galilê trước các ông. Ở đó, các ông sẽ được thấy Người. Ðấy, tôi xin nói cho các bà hay". (8) Các bà vội vã rời khỏi mộ, tuy sợ hãi nhưng cũng rất đỗi vui mừng, chạy về báo tin cho môn đệ Ðức Giêsu hay.
1. Đứng trước ngôi mộ trống cách đây 2000 năm .
Phêrô, tình yêu của ông đã bị che khuất bởi sợ hãi, tội lỗi chối Chúa. Điều ông mong muốn lúc đó là đừng có gì rắc rối xảy ra nữa. Xin được hai chữ bình yên. Nhưng tại sao lại có sự kiện mất xác Chúa? Ông chạy đến mồ với tất cả mọi lo sợ trong đầu óc. Ông lo sợ một nhóm nào đó, sau khi giết Chúa Giêsu, lại tìm cách phá rối các ông để kết án và xử tử các ông. Với một tâm trạng như thế, ông cũng khó có thể nhận ra thông điệp của ngôi mộ trống. “ông chưa hiểu Chúa Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết”. Gioan, Ông yêu thương Chúa Giêsu và biết rằng Chúa cũng rất yêu thương ông. Tình yêu của ông được biểu lộ nhất là trong những giờ phút sau hết của Chúa Giêsu. Ông đã theo chân Chúa trên con đường thập giá cho đến phút cuối cùng và chỉ trở về nhà với Mẹ Maria sau khi đã chôn cất Chúa. Tình yêu đã thôi thúc Gioan đã chạy nhanh ra mộ, vì yêu thương nên gần gũi và nhận biết các thói quen của Thầy, Gioan lập tức nhận ra nhận ra thông điệp của ngôi mộ trống, nhận ra dấu vết Người để lại. Khăn liệm được xếp đặt gọn gàng chứng tỏ bàn tay Người tự xếp đặt. Người tự xếp đặt tức là Người đang sống và “ông đã thấy và đã tin”. Maria Mađalena, chị đã yêu nhiều, với đặc tính tình yêu của người phụ nữ nên đã thao thức nhiều nhất, đã chạy đến mồ trước nhất , khi mọi người đã về, chỉ còn mình chị đứng lại khóc bên mồ, nên chị được diễm phúc là người thấy Chúa phục sinh đầu tiên , và được Chúa sai đi loan Tin Mừng phục sinh cho chính các tông đồ. Với Chúa, yêu nhiều thì được nhiều, đôi khi quá tầm mong đợi . 2. Đứng trước ngôi mộ trống trong thời đại hiện nay. Một ngôi mộ trống nhưng được giải thích bằng nhiều cách khác nhau, sẽ dẫn đến những phản ứng khác nhau. Trong cuộc sống đức tin, mỗi người chúng ta đã nhiều lần đứng trước ngôi mộ trống , đó là những lần chúng ta băn khoăn đi tìm câu trả lời cho ý nghĩa đích thực của đời Kitô. Dù đã được học hỏi về đức tin Kitô, đã được nghe giảng Lời Chúa, đã được chia sẻ kinh nghiệm sống đức tin của biết bao thế hệ tín hữu, nhưng những điều ấy không miễn cho chúng ta phải đối diện với đức tin của chính mình.
Nơi sâu thẳm tâm hồn mỗi người thường tồn tại những nấm mộ bất khả xâm phạm. Nấm mộ ấy chôn cất nhiều nút thắt khó sắp xếp và tháo cởi như: đau buồn về những yếu kém của bản thân, những cố gắng không được như ý, những khốn khó vùi dập liên hồi. Có nhiều lúc chúng ta như rơi vào đêm tối bất an, tương tự như các môn đệ trong thời gian sau biến cố tử nạn của Chúa Giêsu, chúng ta nửa tin nửa ngờ. Một mặt chúng ta biết rằng đức tin vào Chúa Kitô có sức giải thoát chúng ta khỏi vòng vây tội lỗi và mang lại cho chúng ta một cuộc sống an bình hạnh phúc. Mặt khác, chúng ta phải đối diện với những thực tế cấp bách, thực tế xem ra không trùng khớp bao nhiêu với những điều mà đức tin dạy bảo chúng ta. Ðức tin dạy chúng ta phải xây dựng hạnh phúc trên những nền tảng siêu nhiên. Thực tế lại cho thấy dường như những điều siêu nhiên chẳng giúp chúng ta đạt hạnh phúc mà đôi khi còn gây ra cho chúng ta bao nhiêu điều thiệt thòi phiền toái. Ðức tin dạy chúng ta phải tập trung đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau, thực tế lại cho thấy mọi người đều dồn hết sức lực để xây dựng cho cuộc sống vắn vỏi ở đời này. Ai đúng, ai sai, ai khôn, ai dại? Chúng ta bối rối không biết phải theo ai bỏ ai đây? Trước những câu hỏi hóc búa này, chúng ta loay hoay tìm câu trả lời. Chúng ta cầu xin Chúa Giêsu soi sáng cho chúng ta. Nhưng có lúc, thay vì trực tiếp trả lời, Chúa Giêsu đưa chúng ta tới ngôi mộ trống của Người. Người lại bắt chúng ta tự đặt ra câu hỏi cho chính mình. Thánh ý Người , Người gởi đến cho chúng ta qua những dấu chỉ, những biến cố đặc biệt xảy đến cho chúng ta. Trong bài tin mừng hôm nay, Chúa cho chúng ta biết , tình yêu dẫn đến đức tin, tình yêu sẽ giúp chúng ta giãi mã những tín hiệu ngôi mộ trống của Người . Những suy tư lo lắng cho riêng mình của Phêrô chẳng đưa tới đâu, chỉ có tình yêu của Gioan mới dẫn ông mau chóng tới niềm tin vào Chúa Giêsu phục sinh dù là ông chưa thật sự thấy Chúa Giêsu hiện ra. Nhưng với tình yêu lo lắng nhiều cho người mình yêu và thêm phần kiên trì nhẫn nại như Maria Mađalêna thì sẽ động lòng Chúa và được thấy Chúa nhãn tiền. Trong cuộc hành trình đức tin, chúng ta noi gương thánh Phêrô biết chạy đến Chúa trong lúc sợ hãi và tội lỗi để được thấy tảng đá đã được lăn ra , những tảng đá của tội lỗi của đam mê, của hận thù ghen ghét, của ích kỷ…, nó làm ngăn cản đời sống thiêng liêng của chúng ta, đè nặng lên người chúng ta được Chúa lăn ra để thấy được ngôi mộ trống đầy niềm hy vọng. Khi tảng đá đó lăn ra khỏi lòng mình thì niềm vui Phục sinh là cuộc giải phóng khỏi tội, khỏi sự bất an, thay vào đó là niềm vui, bình an và hạnh phúc thật sự trong tâm hồn. Chúng ta noi gương Gioan, để nhận ra thông điệp của Chúa, hiểu biết được ý Chúa muốn trong mọi biến cố của cuộc đời mình. “Ông đã thấy và đã tin”. Đó là một lời chứng, nhưng cũng là một lời thú nhận là ngài đã không thể hiện được trọn vẹn mối phúc Đức Giêsu công bố: “Phúc thay kẻ không thấy mà tin” . Chỉ có Đức Maria, Thân Mẫu Đức Giêsu, mới đạt được mức độ đức tin ấy: tại Cana, trước khi Đức Giêsu làm phép lạ đầu tiên, Mẹ đã tin cách nào đó, nên mới cho Con biết là tiệc hết rượu và bảo gia nhân hãy làm theo lời Người dù rằng Người đã nói "Thưa bà, chuyện đó can gì đến bà và con? Giờ của con chưa đến". Chúng ta noi gương Đức Maria luôn luôn đặt mọi biến cố đời mình trong lòng và suy gẫm . Chúng ta noi gương Maria Mađalêna yêu nhiều , luôn thao thức vì người yêu và kiên nhẫn đợi chờ trong sự trống vắng để có thể thấy sự hiện diện của Chúa và được yên ủi.
3. Ngôi mộ trống bằng chứng của sự sống lại - Chúa Giêsu phục sinh Đối với tất cả các tín hữu, ngôi mộ trống là một bằng chứng quan trọng bởi vì ngôi mộ này nói lên Chúa Giêsu thật sự đã chết, Người đã được mai táng sau khi bị hành hình, bị giết chết trên thập giá. Ngôi mộ ấy cũng đã được quan tổng trấn Rôma niêm phong và chính quyền Do Thái đã cắt lính canh gác cẩn thận. Nhưng ngôi mộ ấy đã trống rỗng vì không còn xác Đức Giêsu nhưng khăn liệm vẫn còn đó. Các thượng tế và các kỳ mục đã cho lính canh một số tiền lớn để họ loan báo là các môn đệ Đức Giêsu đã lấy cắp xác Đức Giêsu, phao tin đồn nhảm rằng Người đã sống lại. Nhưng, nếu các môn đệ thật sự làm chuyện đó thì họ phải ôm xác Chúa Giêsu chạy đi thật nhanh khỏi hiện trường để không bị lính canh bắt giữ và tra hỏi. Bài Tin Mừng Gioan đã kể lại rằng những khăn và vải liệm được xếp gọn gàng, để riêng một chỗ, như muốn phản bác lại giả thuyết trên. Hơn nữa, khi còn sống Đức Giêsu đã không cứu nổi chính mình, thì khi chết, Người cứu được ai làm sao có thể khiến cho các môn đệ phải liều mình với bao lính canh của Roma để ăn cắp xác. Các môn đệ của Đức Giêsu có thể làm điều đó không khi các ông là những người rất nhát đảm, đã bỏ Người trốn biệt chỉ có mỗi môn đệ Người yêu dám theo chân Người ra pháp trường, sau cái chết của Người họ trốn trong nhà đóng kín cửa vì sợ người Do Thái. Và hơn thế nữa, chính quyền Do Thái , lính canh Roma có thể để cho họ tự do đến thăm mộ nhiều lần, nhiều người mà không bị bắt giữ vì tội đã đánh cấp xác Đức Giêsu ?. Vì thế, các sự kiện xảy ra ở ngôi mộ trống chứng minh rằng Đức Giêsu thật sự sống lại. Ngôi mộ trống là bằng chứng cho tất cả mọi người muốn tìm hiểu về Đấng Phục Sinh. Ngôi mộ trống là ngôi mộ chứa đầy niềm hi vọng. Ngôi mộ trống là một khởi điểm mới, là khối hỗn mang để Chúa làm nên một trời mới đất mới. Chúa Giêsu Phục Sinh mở toang cửa mộ, giải thoát con người khỏi sự kìm hãm của sự dữ, mở ra thời đại mới, thời đại của hy vọng và chiến thắng. Niềm tin Phục Sinh cho phép ta có đủ lý do để hy vọng về sự chiến thắng những cơn giống tố của cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh
Lúc chúng con tìm kiếm Ngài trong nước mắt,
xin hãy gọi tên chúng con như Chúa đã gọi tên chị Maria đứng khóc lóc bên mộ.
Lúc chúng con chán nản và bỏ cuộc,
xin hãy đi với chúng con trên dặm đường dài như Chúa đã đi với hai môn đệ Emmau.
Lúc chúng con đóng cửa vì sợ hãi,
xin hãy đến và đứng giữa chúng con như Chúa đã đến đem bình an cho các môn đệ.
Lúc chúng con cố chấp và xa cách anh em,
xin hãy kiên nhẫn và khoan dung với chúng con như Chúa đã không bỏ rơi ông Tôma cứng cỏi.
Lúc chúng con vất vả suốt đêm mà không được gì,
xin hãy dọn bữa sáng cho chúng con ăn, như Chúa đã nướng bánh và cá cho bảy môn đệ.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh,
xin tỏ mình ra cho chúng con thấy Ngài mỗi ngày, để chúng con tin là Ngài đang sống, đang đến, và đang ở thật gần bên chúng con. Amen.
Mọi
người trong nước đều công nhận vị hoàng tử này là một
con người hoàn toàn trên nhiều phương diện: thông minh, lịch
sự, có tài tổ chức và thu phục nhân tâm. Chỉ tội có
một điều là lưng của hoàng tử bị gù ngay từ khi còn nhỏ.
Chỉ
vì một tật xấu mang trên lưng như vậy mà hoàng tử không
thích xuất hiện trước công chúng, thỉnh thoảng vì hoàn cảnh
bắt buộc hoàng tử mới xuất hiện, lại gặp đám trẻ chế
nhạo như thế, càng ngày hoàng tử càng thêm mặc cảm về
cái lưng gù của mình đến độ quyết định không bao giờ
xuất hiện trước công chúng nữa. Nhưng trớ trêu thay,
hoàng tộc từ lâu vẫn giữ thông lệ không thể thay đổi
được. Ðó là đến tuổi trưởng thành, hoàng tử phải cho
người tạc tượng mình bằng đá cẩm thạch để đem đặt
trong bảo tàng viện quốc gia cho toàn dân hiện tại và cả
những thế hệ tiếp sau được biết dung mạo của hoàng tử.
Từ
trước tới nay, đời nào cũng đầy đủ các tượng những
vị hoàng tử liên tiếp nhau không sót một ai. Giờ đây
đến phiên hoàng tử gù lưng phải được tạc tượng lưu
danh muôn thuở. Thế nhưng, hoàng tử không muốn lưu danh muôn
thuở là một hoàng tử gù lưng, mọi lý lẽ đưa ra để
thuyết phục vua cha đừng tạc tượng mình đều vô ích.
Cuối
cùng, hoàng tử gù lưng chấp nhận cho tạc tượng, nhưng
với hai điều kiện: Thứ nhất, phải tạc tượng mình như
một người đứng thẳng bình thường không bị gù lưng, và
điều kiện thứ hai là không được trưng bày bao lâu hoàng
tử gù còn sống.
Vì
thương con, vua cha nhận lời, sau khi nhà điêu khắc nổi tiếng
trong nước tạc xong bức tượng, hoàng tử đem tượng đó
về đặt trong phòng riêng của mình để mỗi ngày nhìn ngắm
nó. Như thế, mỗi ngày vị hoàng tử gù lưng để ra nửa
giờ đứng yên ngắm bức tượng chính mình như một con
người đẹp trai đứng thẳng, hiên ngang, và lạ lùng thay,
nhờ mỗi ngày làm như vậy mà từ từ vị hoàng tử gù
lưng kia đứng thẳng lên được không còn bị gù lưng nữa.
*
*
*
Quí
vị và các bạn thân mến,
Ðó
là chuyện dụ ngôn. Nhờ nhìn vào hình ảnh của mình mà
hoàng tử gù lưng tìm được dung mạo bình thường của mình.
Mỗi người chúng ta hằng ngày cần có những giây phút
rảnh rỗi để nhìn thẳng vào thực tại đích thực của mình,
thực tại ngôi vị con người, chứ không phải là một món
đồ vật hay một con vật. Mỗi ngày chúng ta cần nhớ mình là
người, sống đúng cương vị là người như con người. Hơn
thế nữa, là người Kitô, chúng ta cần nhìn vào mẫu gương
Chúa Giêsu Kitô để sống đúng phẩm vị làm con cái Thiên
Chúa, được Thiên Chúa dựng nên giống hình ảnh Ngài và
đã được Chúa Giêsu Kitô cứu chuộc, ban ơn tái sinh thành
con người tốt đẹp, thông phần đời sống của chính Thiên
Chúa. Mỗi người Kitô cần nhìn lên Chúa Giêsu Kitô hằng
ngày để có thể chiến thắng những tật xấu của mình, để
có thể loại bỏ tất cả những gì không phù hợp với tinh
thần Chúa Kitô. "Chúng con hãy nên trọn lành như Cha
chúng con trên trời là Ðấng trọn lành". Và Thánh
Phaolô đã nhắc các tín hữu thân yêu của Ngài như sau:
"Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Chúa
Kitô". Làm sao bắt chước Chúa Kitô nếu chúng ta không
đọc Phúc Âm để biết Chúa và sứ điệp của Ngài mỗi
ngày một hơn.
Hằng
ngày, chúng ta cần phải dành ra những giây phút thinh lặng
trong đời sống, để chiêm ngắm mẫu gương tốt lành của
Chúa để mỗi ngày một trở nên giống như Chúa.
Lạy
Chúa, xin hướng dẫn tâm trí con về với Chúa, và ban ơn soi
sáng cho con được sống như chính Chúa đã nêu gương. Amen.
Mùa Chay lại trở về và tiếng gọi Tình Yêu trên Thánh Giá như lại vọng
lên trong tâm hồn người Kitô hữu. Sự mời gọi trở về với Thiên Chúa và
tha nhân. Thánhlinh.net trân trọng gởi tới Quí vị “Bảy lá thư tình của
Chúa Giêsu viết từ trên Thánh Giá” dựa trên “Bảy lời cuối của Chúa
Giêsu” trước giờ tử nạn trên đồi Golgotha được ghi trong Thánh Kinh, để
có thể suy niệm và cầu nguyện trong suốt 40 ngày Mùa Chay.
Ước gì
bảy lá thư tình hay nhất được viết từ trên Thánh Giá này, sẽ giúp Quí
vị tìm được nguồn hạnh phúc và ân sủng dồi dào từ nơi Chúa Giêsu, Đấng
đã yêu nhân loại đến nỗi đã chịu chết cho Quí vị. Xin Quí vị dành chút
thời gian thinh lặng lắng nghe bảy lá thư tình sau đây được gởi riêng
cho Quí vị:
Lá thư tình yêu thứ nhất
Lời Chúa: “Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Lc 23:34
Con yêu dấu của Thầy,
Lời thứ nhất trong bảy lời sau cùng của Thầy trên Thánh giá là Thầy xin
Cha Thầy tha thứ cho những người đã đánh đòn và đóng đinh Thầy. Trong
cơn đau đớn, quằn quại tột cùng trên thánh giá ấy, làm sao Thầy lại có
thể nói lên điều đó với những quân lính đang đứng nhìn lên chế nhạo
mình? Khó lắm con ơi, nếu như tình yêu của Thầy không mãnh liệt hơn sự
chết, và nếu không có sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Thầy đã chẳng nói
với các con rằng: “Đối với con người thì không, nhưng đối với Thiên Chúa
thì mọi sự đều có thể được”. Thế giới hôm nay dư thừa tội lỗi và tiền
bạc, nhưng tình yêu và sự tha thứ lại đang thiếu hụt nghiêm trọng. Thiếu
hụt đến nỗi người ta có thể chém giết nhau thay vì tha thứ cho nhau.
Lời thứ nhất Thầy nói trên thánh giá chỉ là sự lập lại lời trong kinh
Lạy Cha mà Thầy đã truyền dạy cho con là: “Xin Cha tha nợ chúng con như
chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”.
Luật xưa dậy rằng “mắt đền mắt, răng đền răng”, nhưng Thầy mời gọi con
hãy dùng tình yêu mà xoá bỏ mọi hận thù, ghen ghét. Vì yêu mến Thầy, con
hãy tha thứ cho tha nhân. Một khi con tha thứ cho người khác, thì chính
con cũng được Cha ở trên trời tha thứ mọi tội lỗi cho con. Khi làm điều
đó, con không những đã nhổ đi một cái đinh đóng trên tay chân của Thầy,
mà con còn nhổ đi một cái đinh đang đóng trên cuộc đời của con, để con
được tự do. Con có bao giờ nhổ một cái đinh rỉ sét đóng trên một thanh
gỗ chưa? Thật không dễ để nhổ trọn vẹn một cái đinh rỉ sét ra khỏi thanh
gỗ. Nó thường bị gãy nơi phần rỉ sét, và để lại phần rỉ sét nằm in nơi
thanh gỗ. Cho dù có nhổ được cái đinh ra đi nữa, thì nó vẫn để lại một
lỗ đinh và vết vàng loang lỗ trên thanh gỗ.
Con ơi, sự không tha thứ chính là hình ảnh của một cái đinh rỉ sét đã
bám chặt vào thanh gỗ. Bao lâu sự tha thứ chưa được giải thoát, thì bấy
lâu nó sẽ như phần rỉ sét của cái đinh cắm sâu trong trái tim của con.
Trong Mùa Chay này, con hãy dành ít thời gian xem điều gì, hay người nào
con cần tha thứ. Người ấy cũng có thể là chính con, cũng có thể là
người đã khuất. Nếu mỗi ngày trong 40 ngày Mùa Chay, con tìm được một
điều hay một người để tha thứ nhờ vào sức mạnh của Thiên Chúa, thì Thầy
bảo thật với con rằng, con đã được tái sinh trong đời sống mới và được
phục sinh cùng với Thầy.
Để khởi sự thực hiện điều này, Thầy mời gọi con hãy viết trên miếng giấy
tên của một người hay điều gì đó mà con cần tha thứ hay cần được giải
thoát. Sau đó, con thắp nên một ngọn nến, cầu nguyện và xé bỏ miếng giấy
ấy đi. Kế đến, con đem cây nến đang cháy đặt dưới chân Thánh Giá và
dâng điều ấy hay người ấy cho Thầy.
Thầy sẽ ban cho con sức mạnh để có thể làm được điều đó, để rồi trong
đêm lễ Phục Sinh, con sẽ nhận được một ngọn nến mới từ Thầy, ánh sáng
của Chúa Kitô phục sinh, ánh sáng của tin yêu, bình an và hy vọng, và
Thầy mong ánh sáng ấy được bừng sáng lên. Con được kêu gọi để trở nên
ánh sáng của Thầy giữa thế giới hôm nay đầy bóng tối và hận thù đang lan
tràn khắp nơi.
Lời Chúa: “Hôm nay, ngươi sẽ ở trên Thiên đàng với Ta”.Lc 23:43
Con yêu dấu của Thầy,
Chỉ một lời nói thành tâm sám hối sau cùng của “người trộm lành”, mà anh
được Thầy hứa ban Thiên đàng. Nếu một người trộm cướp vẫn có cơ hội vào
thiên đàng và trở thành thánh, thì hỡi con, con còn có nhiều cơ hội hơn
thế nữa. Đừng để cơ hội qua đi và đừng tiếc nói lời sám hối tội lỗi của
mình. Thầy bảo thật với con, Thầy sẽ không từ chối bất cứ sự sám hối
nào bất kể quá khứ của họ thế nào đi nữa.
Tội lỗi của con đã được trả với một giá rất mắc bằng giá máu cứu chuộc
của Thầy, nhưng nước thiên đàng lại được sẵn sàng ban cho con với “một
giá rất rẻ” không ngờ. Giá ấy là lòng thành tâm sám hối ăn năn. Như Thầy
luôn đón nhận và cho con cơ hội sám hối trở về, thì Thầy cũng mong con
hãy cho người khác có cơ hội trở về, và làm hoà với con. Bất chấp quá
khứ và tội lỗi của người trộm lành, khi Thầy nói “hôm nay”, ngươi sẽ ở
trên thiên đàng với Ta, là Thầy muốn nói đến giây phút hiện tại, không
phải hôm qua hay ngày mai. Vậy Thầy cũng muốn nói với con rằng:
- Hôm nay, con hãy sám hối và thành tâm trở về với Thầy.
- Hôm nay, con hãy cầu nguyện và làm việc bác ái.
- Hôm nay, con hãy dự lễ như là thánh lễ cuối cùng của cuộc đời con.
- Hôm nay, con hãy sống như là ngày cuối cùng của con trên trần gian này.
- Hôm nay, con hãy chuẩn bị phần hồn của con như thể ngày mai sẽ là ngày tận thế…
Con không làm chủ thời gian và ngày ấy sẽ đến vào lúc con không ngờ. Năm
cô trinh nữ khôn ngoan là năm cô trinh nữ luôn có đèn và có dầu để khi
Chàng Rể đến thì các cô đã sẵn sàng theo Ngài. Con hãy luôn mang trên
mình đèn đức tin và dầu bác ái vì đó là điều đẹp lòng Thầy, vì đó là
điều con sẽ mang theo khi từ giã cõi đời.
Để thực hiện điều này, hôm nay con hãy mang tâm tình của người con hoang
đàng đứng dậy và đến quỳ dưới chân của Thầy. Con hãy thổ lộ mọi tâm tư,
bày tỏ mọi ý định và ước vọng của con cho Thầy. Thầy sẽ lắng nghe như
Thầy đã nghe Maria tâm sự, vì Thầy là Thiên Chúa đã mang lấy xác phàm
nhân, và biết cảm thông nỗi đau khổ của con người. Thầy không còn gọi
con là tôi tớ nữa nhưng là bạn hữu của Thầy, vì con đã được tiền định
nên đồng hình đồng dạng với Thầy.
Lời Chúa: “Thưa Bà, này là con Bà, này con, đây là Mẹ con”. Gioan 19:27
Con yêu dấu của Thầy,
Điều cao quý nhất của Chúa Cha là ban tặng Người Con yêu dấu của Ngài
cho nhân loại. Thế nhưng chưa đủ, Ngài còn ban cho con một Người Mẹ. Mẹ
Maria là Mẹ của Thầy và cũng là Mẹ của con. Như Mẹ đã yêu thương, chăm
sóc cho Thầy thế nào thì Mẹ cũng sẽ yêu thương và chăm sóc con như vậy.
Con ơi, có Mẹ Maria là một diễm phúc lớn lao cho con. Khi Thầy sinh ra
tại Bêlem vào đêm đông giá rét, thì Mẹ Maria tỏa hơi ấm từ mẫu sưởi ấm
cho Thầy. Khi Hêrôđê muốn lấy mạng sống của Thầy thì Mẹ đã ẵm Thầy trốn
sang Ai-cập. Khi lên Giêrusalem lạc mất Thầy thì Mẹ đã vội vã đi tìm lại
Thầy. Phép lạ đầu tiên Thầy làm cho nước hóa nên rượu cũng là nhờ lời
cầu bầu của Mẹ. Mẹ đã theo Thầy trên con đường thập giá lên đồi
Golgotha, và Mẹ đã đứng dưới chân Thánh Giá lúc Thầy tắt thở khi các môn
đệ của Thầy bỏ trốn.
Hỡi con, con hãy nhớ rằng trong mọi biến cố của cuộc đời ngoài Thầy ra,
con còn có Mẹ. Khi cuộc đời của con lạnh lẽo giá rét tình người, con hãy
tìm đến trong cung lòng của Mẹ Maria. Khi ai đó muốn cướp đi cuộc sống
của con, con hãy tìm đến ẩn náu nơi tà áo của Mẹ. Khi con lạc bước xa
Thầy, con hãy tìm bước theo gót chân Mẹ. Khi cuộc đời con thiếu rượu,
con hãy thành khẩn cầu xin với Mẹ. Khi con cảm thấy thập giá đè nặng
trên đôi vai, con hãy xin Mẹ đồng hành với con. Và khi con sắp trút hơi
thở cuối cùng, con hãy phó dâng hồn xác cho Mẹ. Những gì Mẹ nhận nơi
con, Mẹ sẽ dâng lên cho Thầy. Thầy bảo thật con, không một điều gì Mẹ
xin Thầy, mà Thầy lại từ chối không nhận lời Mẹ.
Con hãy học nơi Mẹ Maria sự khiêm nhường, xin vâng, tin theo thánh ý
Chúa, và Mẹ luôn tin tưởng để Chúa thể hiện thánh ý của Ngài trên cuộc
đời của Mẹ. Để thực hiện điều này, con hãy nhận một chục Kinh Mân Côi,
và đọc với hết tấm lòng yêu mến trước tượng ảnh của Mẹ. Con hãy dâng
hiến cuộc đời con cho Mẹ, để Mẹ sẽ dẫn dắt và phù hộ cho con trong mọi
lúc.
Khi Abraham vung dao định sát tế con của mình, thì Cha Thầy đã sai sứ
thần đến cản lưỡi dao của Abraham, vì Ngài không đành tâm để Abraham mất
đi người con một của mình. Thế nhưng với Thầy là Con yêu dấu của Ngài
vào giờ hấp hối trên thánh giá, thì Ngài đã lặng thinh, để chính Thầy
phải thảm thiết kêu lên: “Cha ơi, sao Cha bỏ rơi Con”.
Thầy nói điều đó vì Thầy biết trong cuộc đời của con, sẽ có lúc con cũng
kêu lên: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con. Sao Ngài bỏ rơi
con?”. Phải chăng vào lúc đó Thầy đi vắng hay Thầy lánh mặt làm ngơ
tiếng con kêu cầu? Không, Thầy minh xác với con là Thầy không bao giờ bỏ
rơi con, vì nếu Thầy bỏ rơi con, thì cái chết của Thầy đã trở nên vô
nghĩa đối với con. Như mặt trời rất cần thiết cho sự sống của cỏ cây.
Thiếu ánh sáng cỏ cây sẽ chết, nhưng có lúc mặt trời cần được che khuất
bởi những áng mây mù, để những cơn mưa kéo tới và tưới ướt mặt đất cho
vạn vật được hồi sinh. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất phải tan biến đi thì
nó mới sinh nhiều hoa trái, những lúc con đau khổ là lúc hoa trái của
tình yêu đơm bông và kết trái ân sủng của Thiên Chúa. Khi có tình yêu
thì đau khổ luôn ẩn chứa niềm hạnh phúc, tựa như người mẹ đau đớn khi
sanh nở nhưng vui mừng sung sướng khi thấy con chào đời.
Con đường của con đi sẽ có đau khổ và thập giá. Thầy có Thánh Giá của
Thầy. Mẹ Maria có Thánh giá của Mẹ, nhưng Thầy và Mẹ Thầy đã đi hết
đường Thánh giá của mình. Vậy hỡi con, con muốn theo Thầy thì hãy vác
thập giá mình mà theo Thầy. Trong mọi hoàn cảnh, con hãy nhớ rằng Thiên
Chúa không làm điều gì vô nghĩa cả và Thiên Chúa có thể biến sự dữ ra sự
lành. Thánh giá của Thầy là một ô nhục đối với người Do-thái, nhưng với
con lại là nguồn ơn cứu rỗi.
Để tỏ lòng tin vào Thầy, con hãy cầm cây Thánh Giá áp lên trái tim và
nói với Thầy rằng: bỏ Thầy con biết theo ai, vì Thầy có lời ban sự sống
đời đời. Con hãy tha thiết kêu cầu Danh “Giêsu”, vì Danh của Thầy có
quyền năng chữa lành, xoa tan bóng đêm và sự dữ. Con hãy nói với Thầy về
thánh giá của con đang có. Hãy xin Thầy cùng đồng hành vác thánh giá
với con, như ông Simon đã cùng vác thánh giá với Thầy. Con đặt thánh giá
xuống và viết tên con trên mảnh giấy hình trái tim để biết rằng trong
trái tim của Thầy luôn có hình ảnh của con.
Lúc còn ở thế gian, Thầy đã chẳng nói với con rằng: ai khát hãy đến cùng
Thầy, từ lòng Thầy sẽ tuôn chảy dòng nước hằng sống. Con người ở mọi
thời đại, mọi giai cấp đều đói khát về tâm linh cho đến khi họ tìm được
Đấng đã tạo dựng nên họ, cho đến khi họ nhận ra Người Cha trên trời. Họ
chỉ được no thỏa trong tâm hồn khi tìm đến với Thầy và ở trong tình yêu
của Thầy. Người phụ nữ Samari ngồi bên bờ giếng thế mà chị vẫn khát. Chị
chỉ hết khát khi chị biết xin dòng nước từ nơi Thầy. Người Do-thái xưa
kia khát mong một Vị cứu tinh đến giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ lầm
than. Cha Thầy đã lắng nghe tiếng than khóc của họ và đã sai Thầy đến
làm dịu mát cơn khát của họ. Thế nhưng, khi Thầy kêu lên: Ta khát, họ đã
cho Thầy nếm giấm chua. Ôi, cho đến bao giờ Thầy mới khỏi khát vì sự
bội bạc của con người?
Con thân mến, hôm nay cũng như hàng ngàn năm trước, Thầy vẫn còn cất cao
tiếng kêu: Ta khát. Cái khát của Thầy đang biểu hiện trên những khuôn
mặt của nạn nhân chiến tranh, bạo động và đàn áp; của bao nhiêu người
cơm không đủ ăn áo không đủ mặc; của những khuôn mặt trẻ thơ bị bán đi
làm nô lệ tình dục; của những thai nhi không có cơ hội cất tiếng khóc
chào đời; của những khuôn mặt già nua bệnh tật trong viện dưỡng lão; của
những người chưa biết đến Thầy là ai… Nỗi khát lớn lao nhất vẫn là khát
tình người với Chúa và tình người với người. Thế giới hôm nay có rất
nhiều Lazarô đang đói khát, nhưng cũng không thiếu gì những “người phú
hộ” ăn ngon mặc đẹp, nhà sang xe xịn...
Con yêu, con có muốn là người được sai đi làm dịu cơn khát của Thầy
không? Nếu con đã sẵn sàng, con hãy nếm thử một chút dấm chua mà Thầy đã
nếm qua, và con hãy dành một ít phút thinh lặng nghĩ tới những khuôn
mặt đang đói khát ở chung quanh con. Bắt đầu với những khuôn mặt rất gần
với con như cha mẹ, anh chị em, chồng vợ, con cái. Họ là những người
cha trao phó cho con, con hãy nhận ra họ đang đói khát điều gì? Có thể
họ không thiếu cơm ăn áo mặc nhưng thiếu tình yêu, chung thủy, trách
nhiệm, quan tâm của con dành cho họ. Nếu con muốn đi xa hơn nữa để làm
dịu cơn khát của Thầy, con hãy nghĩ tới các ân nhân, họ hàng, bạn bè,
người quen biết của con. Thầy chắc chắn rằng con sẽ tìm được một khuôn
mặt đang đói khát vật chất hoặc tâm linh. Con hãy chia sẻ và cầu nguyện
cho họ.
Con ơi, nếu không phải là con thì Thầy sẽ sai ai đi bây giờ? Nếu không
phải ngay hôm nay thì đến bao giờ Thầy nới được dịu cơn khát. Thầy cám
ơn con nhiều lắm. Thầy cho con biết, chỉ một chén nước lạnh con cho Thầy
hôm nay, con sẽ được dư đầy nước trường sinh mai sau.
Để chu toàn thánh ý của Thiên Chúa Cha, Thầy đã phải đi qua 14 đàng
Thánh Giá đau thương. Con thấy đó, đường thương khó của Thầy là đường
lên đỉnh đồi, vì thế Thầy đã ngã lê bước và xuống đất nhiều lần, nhưng
Thầy đã đứng dậy tiếp tục bước đi. Mỗi lần ngã xuống đất, Thầy lại nghĩ
tới sự sa ngã của Adam - Evà, của vua Đavít, của Giuđa và cái ngã ngựa
của Phaolô. Những cái ngã này đều khác nhau vì mỗi người có sự yếu đuối
riêng của mình. Evà đã sa ngã vì trái táo kiêu ngạo. Đavít sa ngã vì sắc
dục. Giuđa đã sa ngã vì tiền bạc. Phaolô ngã vì đi tìm bắt các Kitô hữu
của Thầy. Đằng sau sự sa ngã chính là bản tính xác thịt yếu đuối, danh
vọng thế gian và quyền lực của sự dữ. Mỗi lần ngã là mỗi lần đau, mỗi
lần đau là mỗi bài học để đời cho bản thân mình.
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc chạy đua. Trong cuộc chạy đua trên
thao trường, tất cả mọi người đều chạy, nhưng chỉ có một người đoạt
giải. Con hãy chạy thế nào để chiếm cho được phần thưởng không bao giờ
hư nát. Là lực sĩ điền kinh, con phải kiêng cữ đủ điều để hoàn tất cuộc
đua. Như Thầy, Thầy đã đạt tới đỉnh núi sọ. Thầy đã chiến thắng sự chết
và thần dữ. Thầy đã hoàn tất công cuộc cứu chuộc nhân loại.
Con thân mến, con hãy dành dành ít thời gian nhìn lại cuộc đua của con xem, con đang chạy đua ở đua trường nào và mức độ sao?
- Nếu là tu sĩ thì con đang chạy đua để mang nhiều linh hồn về cho Thầy. Trong cuộc đua này con hãy đạt cho được đức Khiết Tịnh, Khó Nghèo,
Vâng Phục. Không phải bao nhiêu thánh lễ, công trình con đã làm, nhưng
bao nhiêu sự khiết tịnh, khó nghèo và vâng phục con đã sống mới thật
trân quý.
- Nều con là vợ chồng, thì con đang chạy đua để xây dựng một giáo hội
nhỏ thánh thiện của Thầy nơi gia đình của con. Trong cuộc đua này con
hãy đạt cho được sự chung thủy, yêu thương, cảm thông và hiệp nhất.
- Nếu con là bậc là con, thì con đang chạy đua để đạt cho được lòng thảo
kính cha mẹ. Trong cuộc đua này hãy vâng lời cha mẹ theo tinh thần của
Thầy, vì đó là điều phải đạo.
Con còn một cuộc đua khác nữa cũng không kém quan trọng, đó là chạy đua
với chính mình. Con hãy chạy làm sao để thắng được xác thịt và cái tôi
to lớn của mình. Thầy biết có lúc con sẽ sa ngã. Con hãy tìm sức mạnh
nơi Thầy và hãy can đảm đứng lên. Hãy nhìn về phía trước vì Thầy đang
đứng chờ đợi con ở cuối đường. Vì con đang ở trong cuộc đua, con cần
kiêng cữ để có thể đạt tới đích. Con hãy quyết tâm kiêng cữ hay từ bỏ
một điều xấu nào đó như là một dấu chỉ con đang xé lòng vì yêu mến Thầy.
Lời Chúa: “Lậy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha”. Luca 23:46
Con yêu dấu của Thầy,
Đây là Lá thư tình yêu cuối cùng trong bảy lá thư viết trên Thánh Giá mà
Thầy viết cho con bằng tất cả tình yêu. Thầy đã viết cho con bằng Máu
và Nước từ trái tim của Thầy. Thầy đã yêu con cho đến hơi thở cuối cùng.
Dấu ấn tình yêu mà Thầy để lại cho con là chính Thịt và Máu của Thầy.
Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một
mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Thầy chính là
hạt lúa mì Cha Thầy gieo vào lòng đất đã chết đi để sinh hạt cứu rỗi cho
con.
Con ơi, Thiên Chúa đã yêu thương con đến nỗi đã ban Con một của Ngài cho
con. Nếu ngày hôm nay, Ngài muốn chứng tỏ tình yêu của Ngài dành cho
con thêm một lần nữa, thì Ngài chẳng còn gì để cho con. Ngài đã cho con
tất cả rồi, và chỉ cần cho một lần là đủ, là vĩnh viễn ngàn thu. Có được
Người Con của Ngài là con có tất cả. Con thật quí giá biết bao vì con
là con của Thiên Chúa, một Thiên Chúa uy quyền. Con hãy sống như một
công chúa, một hoàng tử của nước trời. Hãy tung cánh bay cao như chim
phượng hoàng về chân trời xanh thẳm bình yên, đừng sống cặm cụi như bầy
gà trên mặt đất.
Thầy đi để dọn chỗ trên thiên đàng cho con. Hãy tin tưởng vào Lời của
Thầy. Đừng sợ hãi, hỡi con, dù đường đời con đi có muôn ngàn gian khó và
thử thách vì Thầy luôn ở cạnh con. Chén đắng cuộc đời con sẽ phải uống
và thánh giá cuộc đời con sẽ phải mang. Con hãy bền đỗ đến cùng để sẽ
được phục sinh với Thầy.
Con thân mến, để chứng minh niềm tin của con nơi Thầy, con hãy thắp lên
một ngọn nến và nhận một câu Lời Chúa. Con hãy cầu nguyện và sống câu
Lời Chúa này. Thầy sẽ ở với con mọi ngày cho đến tận thế.
Suy niệm đàng Thánh Giá của Đức Thánh Cha Phanxicô tại hý trường Colosseo: 18-4-2014
ROMA. Giống như năm
ngoái và theo vết các vị tiền nhiệm, lúc quá 9 giờ tối thứ sáu Tuần
Thánh 18-4-2014, ĐTC Phanxicô sẽ chủ sự buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể
tại Hý trường Colosseo ở Roma, nơi đã có nhiều tín hữu Kitô chịu khổ
hình vì đức tin.
Tham dự buổi Buổi đi
đàng thánh giá này sẽ có hàng chục ngàn tín hữu hiện diện không kể hàng
trăm triệu khán thính giả trên thế giới tham dự qua truyền hình.
Bài suy niệm cho
buổi đi đàng thánh giá năm nay do Đức Cha Giancarlo Bregantini, TGM giáo
phận Campobasso ở miền nam Italia biên soạn. Năm nay ngài 66 tuổi
(1948), thuộc dòng các dấu thánh Chúa Giêsu (CSS) và nổi tiếng về lập
trường quyết liệt chống các tổ chức bất lương mafia. Qua 14 chặng đàng
thánh giá, Đức TGM Brigantini đề nghị một suy tư về những đề tài khác
nhau liên quan đến thực tại ngày nay, đặc biệt là ở miền nam Italia, với
cuộc khủng hoảng kinh tế kéo theo những hậu quả trầm trọng về mặt xã
hội, như nạn thất nghiệp, cho vay ăn lời ”cắt cổ”. Đức TGM cũng nhắc đến
thảm trạng những người tị nạn, ma túy, rượu chè, và bao nhiêu người bị
ung thư bì các chất độc phế thải chôn trong lòng đất; tình trạng các nhà
tù đông nghẹt, nạn bàn giấy và nền tư pháp chậm như rùa, nạn tra tấn ở
nhiều nơi trên thế giới, nạn bạo hành chống phụ nữ.Sau đây là bản dịch
bài suy niệm của Đức TGM Brigantin do Đức Anh OP (1-6), Mai Anh (7-10)
và Hoàng Nam SJ (11-14)
Chặng thứ I: Chỉ tay lên kết án
”Philatô lại nói với
họ, vì ông muốn tha Chúa Giêsu. Nhưng họ lại gào to lên: ”Đóng đinh nó
vào thập giá!”. Và lần thứ ba ông nói với họ: ”Nhưng người này có làm gì
gian ác đâu? Tôi không thấy nơi ông ta có điều gì làm cho ông đáng
chết. Vậy tôi sẽ trừng phạt rồi tha cho ông ta”. Nhưng đám ông lại gào
lớn tiếng hơn, đòi đóng đanh Chúa; và tiếng gào của họ ngày càng mạnh.
Bấy giờ Philatô quyết định làm theo lời họ yêu cầu. Ông tha cho người đã
bị tống ngục vì nổi loạn và giết người, như dân chúng đòi hỏi, và ông
giao nộp Chúa Giêsu theo ý muốn của họ” (Lc 23,20-25)
Một quan Philato sợ hãi
không tìm kiếm sự thật, chỉ tay lên án và tiếng kêu gào ngày càng lớn
của đám đông dữ tợn, đó là những bước đầu tiên trong cái chết của Chúa
Giêsu. Ngài vô tội như con chiên, máu Ngài cứu chuộc dân. Đức Giêsu ấy
đã đi qua giữa chúng ta, chữa lành và chúc phúc, giờ đây Ngài bị kết án
tử hình. Chẳng có lời biết ơn nào từ phía đám đông, trái lại họ chọn
Baraba. Đối với quan Philatô, sự kiện này làm ông lúng túng. Ông đổ lỗi
cho đám đông và rửa tay, nhưng đồng thời ông tiếp tục bám chặt vào quyền
hành. Ông giao nạp Chúa Giêsu để họ đóng đanh Ngài! Ông không muốn biết
gì về Ngài. Đối với ông, vụ này như vậy là xong rồi!
Sự vội vã kết án Chúa
Giêsu như thế dựa trên những lời cáo buộc dễ dàng, những phán đoán hời
hợt nơi dân chúng, những điều ám chỉ và những thành kiến khép kín con
tim và trở thành một thứ văn hóa kỳ thị chủng tộc, loại trừ và ”gạt bỏ”,
với những lá thư nặc danh và những lời vu khống kinh khủng. Những người
vừa bị tố cáo, thì tức khắc bị đăng trên những trang nhất; nhưng khi họ
được trả tự do, thì tin đó đăng ở phần cuối cùng!
Còn chúng ta thì sao?
Chúng ta có biết đạt tới một lương tâm ngay thẳng và trách nhiệm, trong
sáng, không bao giờ quay lưng lại với với người vô tội, nhưng can đảm
liên kết để bênh vực người yếu thế, chống lại bất công và bảo vệ ở mọi
người sự thật bị chà đạp hay không?
Chặng thứ II: Thập giá nặng nề của cuộc khủng hoảng
”Chúa Giêsu đã mang tội
lỗi chúng ta trong thân thể Ngài, trên cây thập giá, để một khi đã chết
đối với tội lỗi, chúng ta sống cuộc đời công chính; chúng ta được chữa
lành nhờ những vết thương của Ngài. Trước kia anh em lang thang như
những chiên lạc, nhưng nay anh em được quay trở về với vị Mục Tử và là
Đấng canh giữ linh hồn anh em” (1 Pr 2,24-25).
Cây thập giá ấy đè
nặng, vì trên đó Chúa Giêsu vác cả tội lỗi của tất cả chúng ta, Ngài lảo
đảo bước đi dưới gánh nặng ấy, gánh nặng quá lớn đối với một người đơn
độc (Ga 19,17). Đó cũng là gánh nặng của tất cả những bất công tạo nên
cuộc khủng hoảng kinh tế, với những hậu quả nặng nề về mặt xã hội: công
ăn việc làm bấp bênh, thất nghiệp, sa thải, tiền bạc cai trị thay vì
phục vụ, nạn đầu cơ tài chánh, những vụ tự tử của các chủ xí nghiệp, nạn
tham nhũng và cho vay ăn lãi cao, nhiều xí nghiệp di chuyển sang nước
khác.
Đó là thập giá nặng nề
của giới lao động, bất công đè trên vai công nhân. Chúa Giêsu vác lấy
thánh giá trên vai và dạy chúng ta đừng sống trong bất công nữa, nhưng
với ơn Chúa, chúng ta có khả năng kiến tạo những nhịp cầu liên đới và hy
vọng, để không là những con chiên lang thang hay lưu lạc trong cuộc
khủng hoảng này.
Vì thế, chúng ta hãy
trở về cùng Chúa Kitô, vị Mục Tử và là Đấng canh giữ linh hồn chúng ta.
Chúng ta cùng nhau tranh đấu cho công ăn việc làm của nhau, chiến thắng
sợ hãi và lẻ loi, phục hồi sự tín nhiệm đối với chính trị và cùng nhau
tìm cách khắc phục các vấn đề.
Như thế thập giá sẽ nhẹ
nhàng hơn, nếu ta cùng vác với Chúa Giêsu và tất cả cùng nâng thập giá
lên, vì từ những vết thương của Chúa - chúng ta được chữa lành (Xc 1 Pr
2,24)
Chặng thứ III: Sự mong manh làm cho chúng ta cởi mở đón tiếp
”Người đã mang lấy
những đau khổ của chúng ta, đã gánh chịu những đớn đau của chúng ta; mà
chúng ta lại nghĩ Người bị phạt, bị Thiên Chúa đánh đập và hạ nhục.
Người đã bị đâm thấu qua vì tội lỗi chúng ta, bị đè bẹp vì những bất
chính của chúng ta. Hình phạt mang lại ơn cứu độ cho chúng ta đã giáng
xuống trên Người” (Is 53,4-5).
Đó là một Đức Giêsu yếu
đuối, mong manh, rất con người, vị mà chúng ta kinh ngạc chiêm ngắm
trong chặng rất đau thương này. Nhưng chính cái ngã của Chúa, trên đất
bụi, càng tỏ lộ tình thương vô biên của Ngài. Ngài bị đám đông chen lấn,
bị điếc tai vì những tiếng la của binh sĩ, bị sưng phồng vì những vết
thương đánh đòn, đầy cay đắng trong nội tâm vì sự vô ơn vô biên của loài
người. Ngài ngã xuống đất! Nhưng trong lần ngã này, trong sự chiều theo
sức mạnh và vất vả, Chúa Giêsu một lần nữa trở thành Thầy dạy Sự Sống.
Ngài dạy chúng ta chấp nhận sự dòn mỏng yếu đuối của mình, đừng nản chí
vì những thất bại của chúng ta, hãy chân thành nhìn nhận những giới hạn
của mình. Thánh Phaolô đã nói: ”Trong tôi có ước muốn làm điều thiện
nhưng tôi lại không có khả năng thực hiện ước muốn ấy” (Rm 7,18). Với
sức mạnh nội tâm đến từ Chúa Cha, Chúa Giêsu giúp chúng ta đón nhận sự
mong manh của người khác; không vùi dập người bị ngã, không dửng dưng
đối với sa ngã. Và Chúa ban cho chúng ta sức mạnh để không khép kín đối
với người gõ cửa nhà chúng ta, xin tị nạn, xin phẩm giá và tổ quốc. Ý
thức về sự mong manh của chúng ta, chúng ta sẽ đón nhận nơi mình sự mong
manh của những người di dân, để họ tìm được an ninh và hy vọng.
Thực vậy, chính trong
nước dơ nơi chậu nước của nhà Tiệc Ly, nghĩa là trong sự dòn mỏng yếu
đuối của chúng ta, có phản ánh khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa chúng
ta! Vì thế, ”thần khí nào tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng đã đến và trở nên
người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4,2)
Chặng thứ IV: Những giọt lệ liên đới
”Ông Simeon chúc phúc
cho hai ông bà và nói với Maria, Mẹ Ngài: 'Này đây, Thiên Chúa đã đặt
cháu bé này làm duyên cơ cho nhiều người ở Israel vấp ngã hay được chỗi
dậy và về phần Bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu qua tâm hồn Bà' (Lc
2,34-35). ”Anh chị em hãy khóc với người khóc. Hãy có cùng những tâm
tình như vậy đối với nhau' (Rm 12,15-16)
Cuộc gặp gỡ của Chúa
Giêsu với Mẹ Ngài đầy xúc động và nước mắt, qua đó có biểu lộ sức mạnh
vô địch của tình mẫu tử vượt lên trên mọi chướng ngại và biết mở mọi con
đường. Nhưng cái nhìn liên đới của Mẹ Maria càng sinh động hơn nữa, cái
nhìn chia sẻ và mang lại sức mạnh cho Chúa Con. Và như thế, tâm hồn
chúng ta đầy kinh ngạc khi chiêm ngắm sự cao cả của Mẹ Maria, khi Mẹ là
thụ tạo, trở nên gần gũi với Thiên Chúa của Mẹ và là Chúa của Mẹ.
Mẹ gồm tóm tất cả mọi
nước mắt của các bà mẹ đối với những người con xa xăm, đối với những
người trẻ bị kết án tử hình, bị giết hại hoặc ra chiến trường, nhất là
những binh sĩ trẻ em. Chúng ta nghe thấy tiếng than xé lòng của những bà
mẹ đối với con, đang sinh thì vì những thứ bệnh ung thư do việc đốt
những đồ phế thải độc hại gây ra.
Những dòng lệ cay đắng
dường nào! Chia sẻ liên đới với những người con đang hấp hối! Những bà
mẹ canh thức đêm khuya dưới ngọn đèn sáng, hồi hộp vì những người trẻ
đang bị tình trạng bấp bênh đè bẹp hoặc bị ma túy và rượu nuốt chửng,
nhất là những đêm thứ bẩy!
Quanh Mẹ Maria, chúng
ta sẽ không bao giờ là một dân tộc mồ côi! Không bao giờ bị lãng quên.
Như thánh Juan Diego, Mẹ Maria cũng mơn trớn và an ủi chúng ta như những
người con và nói với chúng ta: ”Tâm hồn các con đừng xao xuyến.. Mẹ là
mẹ con, chẳng ở đây sao?” (Tông Huấn Niềm Vui Phúc Âm. 286).
Chặng thứ V: Bàn tay thân hữu nâng đỡ
”Họ bắt một người đi
qua đường vác đỡ thập giá cho Người. Ông tên là Simon người xứ Xirênê,
thân phụ của Alessandro và Rufo” (Mc 15,21)
Tình cờ, ông Simon
Xirênê đi qua đó. Nhưng sự kiện này trở thành một cuộc gặp gỡ quyết định
trong cuộc đời của ông. Ông từ ngoài đồng trở về. Một người lam lũ và
khỏe mạnh. Vì thế, ông bị buộc bác thập giá của Chúa Giêsu, người bị kết
án tử hình ô nhục (Xc Pl 2,,8). Nhưng từ sự tình cờ, cuộc gặp gỡ ấy sẽ
biến thành một cuộc đi theo Chúa Giêsu một cách quyết liệt và sinh tử,
mang thập giá mỗi ngày, từ bỏ chính mình (Xc Mt 16,24-25). Thực vậy, ông
Simon được thánh Marcô nhắc đến như thân phụ của hai tín hữu Kitô được
biết đến trong cộng đoàn Roma là Alessandro và Rufo. Một người cha chắc
chắn đã in dấu trong tâm hồn các con sức mạnh của thập giá Chúa Giêsu.
Vì nếu bạn giữ sự sống chặt quá, thì nó sẽ mốc meo và khô lại. Nhưng nếu
bạn trao tặng, thì sự sống sẽ tươi nở và sinh đầy bông hạt cho bạn và
cho toàn thể cộng đoàn!
Đây chính là bí quyết
thực sự chữa trị tính ích kỷ vẫn luôn rình mò chúng ta. Tương quan với
người khác chữa lành chúng ta và sinh ra tình huynh đệ huyền nhiệm,
chiêm niệm, biết nhìn đến sự cao cả thánh thiêng của tha nhân, biết khám
phá Thiên Chúa trong mọi người, biết chịu đựng những phiền toái trong
cuộc sống, bám chặt vào tình yêu của Thiên Chúa. Chỉ khi nào mở rộng con
tim cho tình yêu Chúa, ta mới được thúc đẩy tìm kiếm hạnh phúc cho tha
nhân qua bao nhiêu cử chỉ thiện nguyện: một đêm ở nhà thương, cho mượn
mà không đòi lãi cao, một dòng nước mắt được lau khô trong gia đình, sự
nhưng không chân thành, sử dụng công ích một cách sáng suốt, chia sẻ cơm
bánh và công ăn việc làm, vượt thắng mọi hình thức ghen tương.
Chặng thứ VI: Bà Vêrônica lau mặt Chúa Giêsu
”Tim con lập lại lời
mời của Chúa: Hãy tìm kiếm nhan thánh Ta!”. Lạy Chúa, con tìm thánh nhan
Ngài. Xin Ngài đừng ẩn mặt, đừng giận mà ruồng rẫy tôi tớ Ngài. Chúa là
Đấng phù trợ con, xin đừng bỏ con, đừng xua đuổi con, lạy Thiên Chúa
Đấng cứu độ con” (Tv 27,8-9).
Chúa Giêsu lê lết bước
đi, thở hổn hển. Nhưng ánh sáng trên khuôn mặt Ngài vẫn nguyên vẹn.
Những vết khạc nhổ không làm lu mờ ánh sáng. Những cái tát không làm cho
ánh sáng trên mặt Ngài bị tắt lịm. Khuôn mặt Ngài như bụi gai cháy đỏ,
khi càng bị xúc phạm,. thì càng chiếu tỏ ánh sáng cứu độ. Những dòng lệ
âm thần chảy xuống từ đôi mắt của Thầy. Ngài mang gánh nặng của sự bị bỏ
rơi. Nhưng Chúa Giêsu vẫn tiến bước, không dừng lại, không ngoái lại
đàng sau. Ngài chịu đựng sự đè nén. Ngài bị giao động vì sự tàn ác,
nhưng Ngài biết rằng cái chết của Ngài không phải là uổng công vô ích.
Bấy giờ Chúa Giêsu dừng
lại trước một phụ nữ đến gặp Ngài không chút do dự. Đó là bà Veronia,
hình ảnh đích thực sự dịu hiền của phụ nữ!
Ở đây Chúa là hiện thân
nhu cầu của chúng ta mong được sự yêu thương nhưng không, cảm thấy được
yêu mến và được bảo vệ nhờ những cử chỉ ân cần săn sóc. Những săn sóc
an ủi của phụ nữ ấy thật quí giá đối với Chúa Giêsu và dường như cất đi
những hành vi xúc phạm mà Ngài đã chịu trong những giờ tra tấn ấy. Bà
Veronica đã đánh động được Chúa Giêsu dịu dàng, chạm đến được sự tinh
trắng của Ngài, không những để thoa dịu nhưng còn để tham gia vào sự đau
khổ của Ngài. Trong Chúa Giêsu, bà nhìn thấy mỗi người cần an ủi dịu
dàng, để đi tới tiếng rên xiết đau thương của những người ngày nay không
nhận được sự giúp đỡ và hơi ấm của sự tình người. Họ chết trong cô đơn.
Chặng thứ VII: Sự kinh hoàng của tù ngục và tra tấn
Chúng bủa vây tôi (..)
Chúng bủa vây tôi như thể bầy ong, chúng như lửa bụi gai cháy bừng bừng,
nhờ Danh Chúa tôi đã trừ diệt chúng. Chúng đã xô đẩy tôi, xô thật mạnh
cho ngã, nhưng Chúa đã phù trợ thân này. Sửa phạt tôi, vâng Chúa sửa
phạt tôi, nhưng không nỡ để tôi phải chết. (Tv 118, 11.12 - 13.18) Quả
thật, trong Chúa Giêsu đã hiện thực những lời tiên tri cổ xưa về Người
Đầy Tớ khiêm hạ và vâng phục, đã mang trên vai toàn bộ lịch sử thương
đau của loài người chúng ta. Và như thế, Chúa Giêsu, bị xô đẩy thô bạo,
té ngã vì mệt nhọc và hành hạ, bị bạo lực vây bủa tứ bề, không còn sức
chịu đựng nữa. Ngày càng cô đơn hơn, càng chìm sâu trong đen tối hơn!
Tan da nát thịt, xương cốt mỏi mòn!
Chúng ta nhận ra trong
Người kinh nghiệm đắng cay của những tù nhân trong mọi ngục tù, với tất
cả những trái ngược vô nhân của nó. Bị vây bủa, bị xô đẩy tàn bạo cho té
ngã. Nhà tù ngày nay vẫn còn bị tránh xa, bị quên lãng, bị xã hội dân
sự bỏ rơi. Có bao nhiêu điều phi lý của bộ máy hành chánh, có bao nhiêu
chậm trễ của hệ thống tư pháp. Rồi thêm bản án đôi là sự quá tải: đây là
một đau khổ trầm trọng hơn, một đàn áp bất công, làm hao mòn thịt
xương. Một vài người, quá nhiều người, không thể chịu đựng nổi.. Và ngay
cả khi một người anh chị em của chúng ta ra khỏi ngục tù, chúng ta vẫn
xem họ là ”cựu tù nhân, và như thế, khép kín cánh cửa giúp họ tìm lại
phẩm giá trước mặt xã hội và hội nhập thế giới lao động.. Nhưng trầm
trọng hơn cả là hiện tượng tra tấn vẫn còn quá thịnh hành tại nhiều nơi
trên trái đất, bằng mọi kiểu. Cũng như trong trường hợp Chúa Giêsu:
Chính Người cũng đã bị đánh đập, bị bọn lính chế nhạo khinh dễ, tra tấn
hành hạ với chiếc mão gai, roi đòn tàn nhẫn.
Ngày nay, chúng ta thấy
đúng làm sao câu nói của Chúa Giê Su khi bị té ngã lần đó: Ta bị tù và
các ngươi đã đến thăm Ta. (Mt 25,26) Trong mọi nhà tù, bên cạnh những
người bị tra tấn, đều có Người, Đức Ki Tô đau khổ, bị giam tù và tra
tấn. Chúng ta chỉ có thể cùng nhau đứng dậy, với sự đồng hành của các
chuyên viên, được bàn tay huynh đệ của các nhân viên thiện nguyện hỗ trợ
và được nâng đỡ bởi một xã hội dân sự biết ôm lấy cả mọi bất công bên
trong những bức tường nhà giam.
Chặng thứ VIII: Chia sẻ chứ không thương hại.
Hỡi chị em thành
Giêrusalem, đừng khóc thương tôi làm gì. Có khóc thì khóc cho phận mình
và cho con cháu. (Lc 23, 28) Như những ngọn đuốc cháy sáng, có bao nhiêu
khuôn mặt phụ nữ xuất hiện hai bên con đường khổ nạn. Những người nữ
trung thành và can đảm, không sợ hãi vì bọn lính hay kích động vì những
vết thương của Thầy nhân lành. Họ sẵn sàng gặp gỡ và ủi an Người. Chúa
Giêsu đứng đó, trước mặt họ. Có những người chà đạp Chúa khi Người ngã
gục mỏi mòn trên mặt đất. Nhưng các phụ nữ đứng đó, sẵn sàng dâng tặng
Chúa nhịp đập nồng ấm của một con tim không thể kềm hãm được. Các bà đã
đứng nhìn Người từ xa, nhưng rồi cố tiến đến gần, như mỗi người bạn, mỗi
người anh chị em đều làm khi thấy người mình yêu đang gặp khó khăn.
Chúa Giêsu khích động
vì tiếng khóc đắng cay của họ, nhưng mời gọi họ đừng tan nát con tim khi
thấy Chúa bị hành hạ đọa đày, đừng khóc lóc thở than nhưng hãy trở
thành những người có lòng Tin. Người kêu mời một niềm đau được chia sẻ
chứ không muốn một lòng thương hại cằn cỗi và đẫm nước mắt. Không còn
những than van khóc lóc, nhưng là khao khát tái sinh, nhìn thẳng về đàng
trước, tiến bước với tràn đầy lòng Tin và hy vọng hướng về rạng đông
chan hòa ánh sáng trên đầu những ai đang trên đường hướng về Chúa. Chúng
ta hãy khóc cho chính mình nếu chúng ta còn chưa tin vào Đức Giêsu,
Người đã loan báo với chúng ta Nước Trơi Cứu chuộc. Chúng ta hãy khóc
cho những tội lỗi chưa xưng thú của chính chúng ta.
Và còn nữa, chúng ta
hãy khóc cho những người nam chỉ biết trút mọi bạo lực chứa đựng trong
lòng trên những phụ nữ. Chúng ta hãy khóc cho những phụ nữ nô lệ của sự
sợ hãi và lạm dụng. Nhưng đấm ngực than van và thương hại thôi thì không
đủ. Chúa Giêsu đòi hỏi nhiều hơn nữa. Người đòi hỏi phải trấn an các
phụ nữ như Chúa đã làm, phải yêu thương họ như một món quà không thể xúc
phạm đến của toàn thể nhân loại. (Một món quà) Để nuôi dạy con cái
chúng ta, trong phẩm giá và trong hy vọng.
Chặng thứ IX: Chiến thắng sự luyến tiếc não nùng không tốt
Ai có thể tách chúng ta
ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói
rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? (...) Nhưng trong tất cả mọi thử
thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta (Rm 24,
35-37) Thánh Phaolô liệt kê những thử thách của mình, nhưng biết rõ là
trước thánh nhân, Chúa Giêsu đã trải qua những thử thách ấy; trên đường
lên Núi Sọ, Chúa đã té ngã một, rồi hai rồi ba lần. Tan nát bởi những
hành hạ, bách hại, bởi gươm đao, bị gỗ thánh giá đè bẹp. Kiệt quệ! Dường
như Chúa thốt lên, như chúng ta trong những lúc tối tăm u ám: Tôi không
còn chịu nổi nữa! Đó là tiếng kêu của những kẻ bị đàn áp bách hại, của
người hấp hối, của các bệnh nhân cuối đời, của những ai đang bị gánh
nặng đè bẹp.
Nhưng trong Chúa Giêsu,
cũng thể hiện rõ sức mạnh của Người: ”Có làm khổ, Người cũng xót
thương. Chúa cho chúng ta thấy rằng trong đau khổ, luôn luôn có lòng
Chúa xót thương, vượt lên trên mọi đau khổ và thấy trước được trong hy
vọng. Cũng như là Chúa Cha khôn ngoan tỉa bớt những nhánh để cây sinh
trái lành (Gv 15,8). Không bao giờ Người tỉa để chặt bỏ cây, nhưng để
cây đơm hoa kết trái tốt lành hơn. Hay như một sản phụ sắp đến giờ sinh
con: bà đau đớn, rên rỉ, quằn quại khi sinh. Nhưng bà biết rằng đó là
những cơn đau của sự sống mới, của một mùa xuân nở đầy hoa chính nhờ
việc tỉa cành ấy. Chiêm ngắm hình ảnh Chúa ngã gục, nhưng rồi lại chỗi
dậy được, giúp chúng ta biết chiến thắng những khép kín mà sự sợ hãi
tương lai đóng ấn trong con tim chúng ta, đặc biệt trong thời đại khủng
hoảng ngày nay. Chúng ta sẽ chiến thắng được sự luyến tiếc quá khứ không
tốt, sự thuận tiện của chủ nghĩa bất động, của ”trước giờ vẫn như
vậy!Ể. Hình ảnh Chúa Giêsu loạng choạng và té ngã, nhưng rồi lại đứng
dậy, đã trở thành sự chắc chắn của niềm hy vọng một khi được dưỡng nuôi
bằng lời cầu nguyện liên lỉ, sẽ nảy sinh từ chính trong thử thách chứ
không sau thử thách hoặc không có thử thách. Chúng ta toàn thắng, nhờ
Đấng đã yêu mến chúng ta
Chặng thứ X: Hiệp nhất và phẩm giá
Đóng đinh Chúa Giêsu
vào thập giá xong, lính tráng lấy áo xống của Người chia làm 4 phần, mỗi
người một phần, họ lấy cả áo dài nữa. Nhưng chiếc áo dài này không có
đường khâu, dệt liền từ trên xuống dưới. Vậy họ nói với nhau: Đừng xé áo
ra, cứ bắt thăm xem ai được. Thế là ứng nghiệm lời Kinh Thánh: ”Áo xống
tôi, họ đem chia chác, cả áo dài cũng bắt thăm luôn. Đó là điều lính
tráng đã làm. (Ga 19, 23.24)
Không một miếng vải nào
được bọn lính để lại để che thân thể Chúa Giêsu. Họ lột trần Người.
Chúa không còn áo xống hay áo dài, không còn quần áo gì cả. Họ lột trần
Người như là hành vi hạ nhục cuối cùng. Thân xác Người chỉ còn được che
đậy bằng dòng máu tuôn trào ra từ những vết thương sâu rộng. Chiếc áo
dài được giữ nguyên vẹn là hình ảnh của sự hiệp nhất của Giáo Hội, sự
hiệp nhất đang được cố gắng tìm lại trên con đường kiên nhẫn, trong một
nền hòa bình dày công xây dựng từng ngày, trên một khung cửi dệt tấm vải
bằng sợi vàng của tình huynh đệ trong niềm hòa giải và trong sự tha thứ
lẫn nhau.. Trong Chúa Giêsu, Đấng vô tội, bị lột trần và bị tra tấn,
chúng ta nhìn nhận phẩm giá bị xúc phạm của tất cả mọi người vô tội, đặc
biệt là của những kẻ bé mọn. Thiên Chúa không hề can thiệp, ngăn cản
không để cho thân thể trần trụi của Người bị phơi bày trên thập giá.
Người đã làm như thế để chuộc lại mọi lạm dụng, được che đậy cách bất
công, và chứng tỏ rằng Người, Thiên Chúa, chắc chắn đứng về phía những
nạn nhân cách không thể quay lui được.
Chặng thứ XI: Tại giường các bệnh nhân
”Chúng đóng đinh Người
vào thập giá, rồi đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau, xem ai được cái
gì. Lúc chúng đóng đinh Người là giờ thứ ba. Bản án xử tội Người viết
rằng: ”Vua người Dothái”. Bên cạnh Người, chúng còn đóng đinh hai tên
cướp, một đứa bên phải, một đứa bên trái. Thế là ứng nghiệm lời Kinh
Thánh: Người bị liệt vào hạng những tên phạm pháp” (Mc 15,24-28)
Và họ đã đóng đinh
Người! Hình phạt dành cho những người bị tước quyền công dân, những tên
phản bội, những nô lệ nổi loạn. Đây là một bản án dành cho Chúa Giêsu
của chúng ta: những đinh nhọn xù xì, nỗi đau khổ tê buốt, nỗi sầu buồn
của Mẹ, sự nhục nhã vì bị xếp ngang hàng với hai tên trộm cướp, bị quân
lính tước hết áo để chia nhau, bị những người đi ngang qua chế giễu: ”Nó
cứu được người khác nhưng không thể tự cứu mình! Xuống khỏi thập giá đi
thì chúng tôi sẽ tin vào ông” (Mt 27,42)
Họ đã đóng đinh Người!
Giêsu đã không đi xuống khỏi thập giá, đã không từ bỏ thập giá. Ngài ghi
nhớ và vâng phục ý Cha cho đến cùng. Ngài yêu và Ngài tha thứ.
Giống như Giêsu, ngày
nay, rất nhiều anh chị em của chính ta đang bị đóng đinh vào giường
bệnh, trong bệnh viện, nhà thương, trong gia đình. Đó là thời gian thử
thách, những ngày cay đắng của cô đơn và thậm chí là thất vọng: ”Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài lại bỏ con?” (Mt 27,46) Bàn tay
của chúng ta chưa bao giờ bị đâm qua, nhưng luôn luôn ở kề bên, an ủi và
nâng đỡ những bệnh nhân, nâng họ dậy từ giường bệnh. Căn bệnh xảy đến
chẳng bao giờ xin phép ai, nó đến bất thình lình. Đôi khi nó gây khó
chịu, nó giới hạn phạm vi của chúng ta, thử thách niềm hy vọng của chúng
ta. Nó rất cay đắng. Chỉ khi nào chúng ta thấy bên cạnh mình có ai đó
lắng nghe chúng ta, gần gũi chúng ta, ngồi bên giường chúng ta... căn
bệnh mới có thể trở thành trường dạy khôn ngoan vĩ đại, trở thành nơi
gặp gỡ Thiên Chúa Nhẫn Nại. Khi nào có ai đó mang trên mình những nỗi
đau vì tình yêu thì ngay nơi đêm tối của khổ đau vẫn bừng lên ánh sáng
vượt qua của Đức Kitô chịu đóng đinh và phục sinh. Điều đối với con
người là một bản án cũng có thể biến thành một hy lễ cứu chuộc vì lợi
ích cho cộng đoàn và gia đình chúng ta. Các thánh đã cho chúng ta thấy
điều đó.
Chặng thứ XII: Bẩy lời than van
”Sau đó, Giêsu Giêsu
biết là mọi sự đã hoàn tất. Và để ứng nghiệm lời Kinh Thánh, Người nói:
”Tôi khát!” Ở đó, có một bình đầy giấm. Người ta lấy miếng bọt biển có
thấm đầy giấm, buộc vào một nhành hương thảo, rồi đưa lên miệng Người.
Nhắp xong, Đức Giêsu nói: ”Thế là đã hoàn tất!” Rồi Người gục đầu xuống
và trao Thần Khí.” (Ga 19,28-30).
Bẩy lời cuối cùng của
Giêsu trên thập giá là một kiệt tác của niềm hy vọng. Một cách từ từ
từng bước một, Đức Giêsu đã đi qua tất cả sự tăm tối của đêm đen, để làm
hài lòng Cha, tin tưởng trong vòng tay Cha. Đó là tiếng than van của
người đang hấp hối, tiếng kêu của người tuyệt vọng, lời cầu cứu của
người lạc mất. Là chính Đức Giêsu đó!
”Lạy Chúa, lạy Thiên
Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46). Đây là tiếng kêu của
Giob, của những ai đang bị vận rủi bủa vây. Thiên Chúa im lặng. Im lặng
vì lời đáp trả của Ngài đã ở đó, trên cây thập giá: chính Ngài, Đức
Giêsu, là lời đáp trả của Thiên Chúa, Lời vĩnh cửu đã nhập thể vì tình
yêu. ”Xin hãy nhớ đến tôi...” (Lc 23,42). Lời kêu cứu của người phạm
pháp cũng đang bị tử hình bên kia đã đi vào con tim của Giêsu, nghe vọng
vang từ chính nỗi đau của Người. Và Giêsu đã lắng nghe lời kêu xin đó:
”Hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi”. Những nỗi đau của
người khác thường giải thoát chúng ta vì nó khiến chúng ta ra khỏi chính
mình. ”Này bà, đây là con bà!...” (Ga 19,26). Chính mẹ của Ngài, Mẹ
Maria, đang cùng với Gioan đứng dưới chân thập giá, đã phá tan nỗi sợ.
Một sự dịu dàng và hy vọng đổ đầy lòng mẹ. Giêsu không hề cảm thấy đơn
độc chút nào. Cũng giống như chúng ta, nếu bên cạnh giường bệnh có ai đó
mà chúng ta thương mến! Một cách trung tín. Cho đến cùng.
”Tôi khát” (Ga 19,28).
Giống như đứa trẻ xin mẹ mình cái gì đó để uống; giống như bệnh nhân bị
cơn sốt làm nóng người... Cơn khát này của Giêsu là cơn khát của tất cả
những ai đang khát khao sự sống, tự do, công bình. Và cơn khát lớn nhất
là khát Thiên Chúa, Đấng tuyệt đối lớn hơn chúng ta, đang khát ơn cứu độ
của chúng ta.
”Mọi sự đã hoàn tất!”
(Ga 19,30). Tất cả: mọi lời nói, mọi cử chỉ, mọi lời tiên báo, mọi
khoảnh khắc của đời sống Giêsu. Tấm thảm hoa đã hoàn thành. Hàng ngàn
sắc màu của tình yêu giờ đây tỏa ra nét đẹp lấp lánh. Chẳng có gì vô
ích. Chẳng có gì bị vứt bỏ. Tất cả đều trở thành tình yêu. Tất cả đều
được dành cho tôi, cho bạn! Ngay cả cái chết của Ngài cũng có một ý
nghĩa! ”Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”
(Lc 23,24). Giờ đây, một cách anh hùng, Đức Giêsu thoát ra khỏi nỗi sợ
chết. Vì nếu chúng ta sống trong tình yêu nhưng không, tất cả sẽ là sự
sống. Sự tha thứ sẽ đổi mới, chữa lành, biến đổi và an ủi! Làm nên một
dân mới. Chấm dứt chiến tranh.
”Lạy Cha, trong tay
Cha, con xin phó thác hồn con” (Lc 23,46). Nỗi thất vọng không còn nữa,
nhưng chỉ còn niềm tin tưởng tràn đầy trong tay Cha, tựa mình vào tim
Cha. Bởi vì trong Thiên Chúa, từng mảnh phần cuối cùng sẽ được gắn lại
với nhau trong sự hiệp nhất!
Chặng thứ XIII: Tình yêu mạnh hơn sự chết
”Chiều đến, có một
người giàu sang tới. Ông này là người thành Arimathê, tên là Giôxép, và
cũng là môn đệ Đức Giêsu. Ông đến gặp ông Philatô để xin thi hài Đức
Giêsu. Bấy giờ tổng trấn Philatô ra lệnh trao trả thi hài cho ông. (Mt
27,57- 58).
Trước khi được mai táng
trong mồ, Đức Giêsu rốt cuộc cũng được trao cho mẹ Ngài. Đó là hình ảnh
con tim bị đâm thâu, nói với chúng ta rằng cái chết không ngăn cản được
nụ hôn cuối cùng của người mẹ dành cho con mình. Bên xác Giêsu, Mẹ
Maria tiến sát bên Ngài bằng một cái ôm trọn vẹn dành cho Ngài. Hình ảnh
này thường được gọi là ”Lòng Thương Xót”. Thật đau buồn nhưng nó cho
thấy cái chết không phá vỡ được tình yêu, vì tình yêu thì mạnh hơn sự
chết! Tình yêu thuần khiết thì luôn còn mãi. Đêm đã đến. Trận chiến đã
phân định thắng thua rạch ròi. Tình yêu vẫn còn nguyên trọn vẹn. Những
ai sẵn sàng hiến mạng sống vì Đức Kitô, sẽ lại tìm thấy được nó, một sự
sống được biến đổi sau cái chết.
Máu và nước mắt đã hòa
lẫn trong tấn thảm kịch này. Cũng như cuộc sống của gia đình chúng ta,
đôi khi cũng bị vây hãm bởi những mất mát bất ngờ và đau xót, với khoảng
trống không thể khỏa lấp được, đặc biệt khi con cái của chúng ta qua
đời.
Lòng thương xót có
nghĩa là biến anh chị em thành người thân cận, những người đang trong
cơn đau buồn và cảm thấy bất an. Thật là một lòng bác ái cao cả khi ta
biết chăm sóc cho những ai đang chịu đau khổ nơi thân xác tổn thương,
nơi tinh thần sa sút, nơi linh hồn tuyệt vọng. Tình yêu bao giờ cũng là
một bài học cao cả mà Đức Giêsu và Mẹ Maria để lại cho chúng ta. Đó là
sứ mạng an ủi anh chị em trong cuộc sống hàng ngày, một sứ mạng được
trao ban trong chúng ta trong cái ôm thành tín giữa Đức Giêsu chịu chết
và Đức Mẹ sầu bi của Ngài.
Chặng thứ XIV: Ngôi mộ mới
”Nơi Đức Giêsu bị đóng
đinh có một thửa vườn, và trong vườn, có một ngôi mộ còn mới, chưa chôn
cất ai. Vì hôm ấy là ngày áp lễ của người Dothái, mà ngôi mộ lại gần
bên, nên các ông mai táng Đức Giêsu ở đó.” (Ga 19,41-42)
Khu vườn, nơi có ngôi
mộ mai táng Đức Giêsu, nhắc nhớ chúng ta về một khu vườn khác: Vườn
Êđen. Một khu vườn đã bị mất đi nét đẹp và trở thành nỗi sầu khổ, nơi
chết chóc và không còn sự sống nữa bởi sự bất tuân của con người. Những
nhành cây hoang dại vốn ngăn cản chúng ta hít thở thánh ý Thiên Chúa,
cũng như sự gắn bó với tiền tài, danh vọng, lối sống phóng đãng, giờ đây
đã bị cắt bỏ và đính chặt vào gỗ cây Thập Giá. Đây là khu vườn mới: cây
thánh giá được cắm vào thế gian!
Trên cao ấy, Đức Giêsu
đã mang lại tất cả cho cuộc sống. Một lần nữa, từ nơi hố thẳm địa ngục,
nơi Satan đã giam giữ rất nhiều linh hồn, tất cả mọi sự đã bắt đầu được
phục hồi. Ngôi mộ tượng trưng cho cái kết của con người xưa cũ. Cũng
giống như Giêsu và tất cả chúng ta, Thiên Chúa đã không để cho con cái
mình phải chịu hình phạt là cái chết đời đời. Trong cái chết của Đức
Kitô, vương quyền của sự dữ, thứ vương quyền đặt nền trên tham vọng và
con tim cứng cỏi, bị bẻ gãy.
Cái chết sẽ tước đoạt
hết mọi thứ của chúng ta, làm cho chúng ta hiểu rằng đấy là lúc chúng ta
phơi bày ra điểm dừng của sự hiện hữu của chúng ta trên thế gian này.
Nhưng trước thân xác Đức Giêsu, một thân xác chịu mai táng trong mồ,
chúng ta ý thức được chúng ta là ai. Chúng ta là những thụ tạo cần đến
Đấng Tạo Hóa của chúng ta để không phải chết. Sự thinh lặng đang phủ kín
khu vườn cho phép chúng ta lắng nghe được thanh âm của làn gió nhẹ: ”Ta
là Đấng hằng sống và ta luôn ở với các con” (Xh 3,14) Tấm màn trướng
trong đền thờ đã bị xé toạt ra. Cuối cùng, chúng ta cũng được thấy dung
nhan của Thiên Chúa chúng ta. Chúng ta biết được tên đầy đủ của Người:
lòng thương xót và sự trung tín, để ta không còn phải bối rối sợ hãi dù
khi phải đối diện với cái chết vì Con Thiên Chúa đã được giải thoát giữa
những người chết (X. Tv 88,6)